Trang chủ / Soạn văn / Soạn văn 8 / Soạn văn bài Lai Tân ngắn nhất – Kết nối tri thức lớp 8

Soạn văn bài Lai Tân ngắn nhất – Kết nối tri thức lớp 8

Xuất bản: 25/05/2025 - Tác giả: Hoàng Yến

Soạn văn bài Lai Tân sẽ giúp bạn hiểu sâu hơn về phong cách trào phúng của Hồ Chí Minh qua một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn mà sắc sảo. Với giọng điệu châm biếm nhẹ nhàng nhưng đầy ý nghĩa, tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội và phê phán những thói hư tật xấu trong bộ máy quan lại thời bấy giờ. Cùng khám phá bài học để cảm nhận tinh thần yêu nước và tài năng nghệ thuật độc đáo của Người.

Trước khi đọc

Câu 1 trang 85 SGK Ngữ văn 8, Tập 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh (còn được biết đến với các tên gọi như Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) đã từng vượt qua nhiều chặng đường gian nan, đi qua nhiều quốc gia thuộc các châu lục như châu Âu, châu Á, châu Phi và châu Mỹ để tìm kiếm con đường cứu nước. Trong hành trình đó, Người đã có thời gian sinh sống và học hỏi tại ba cường quốc lớn thời bấy giờ là Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Cộng hòa Pháp trước khi sang Liên Xô.

Câu 2 trang 85 SGK Ngữ văn 8, Tập 1

Một số tác phẩm thơ tiêu biểu của Hồ Chí Minh mà em biết là: Cảnh rừng Pác Bó, Cảnh khuya, Cảnh rừng Việt Bắc, Bài ca Trần Hưng Đạo, Ngắm trăng, Nhóm lửa…

Đọc văn bản

Theo dõi: Vị trí của các nhân vật trong xã hội

Các nhân vật như ban trưởng, cảnh trưởng và huyện trưởng đều giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy hành chính, là những người có quyền lực trong hệ thống quan lại lúc bấy giờ.

Theo dõi: Hành động, việc làm của các nhân vật

Ban trưởng quản lý nhà lao thường xuyên tụ tập đánh bạc, vi phạm kỷ luật và đạo đức nghề nghiệp.

Cảnh trưởng có thói tham lam, lợi dụng chức quyền để nhận hối lộ từ phạm nhân trong quá trình áp giải.

Huyện trưởng thì lơ là công việc, chỉ chăm chú vào việc đốt đèn, thắp sáng bàn giấy mà không chú tâm đến nhiệm vụ chính của mình.\

bài Lai tân

Sau khi đọc

Câu 1 trang 86 SGK Ngữ văn 8, Tập 1

Bài thơ “Lai Tân” được sáng tác theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.

Dấu hiệu nhận biết: có 4 câu, mỗi câu 7 chữ, vần “tiền – thiên” hiệp ở câu 2 và 4. Bố cục gồm khai – thừa – chuyển – hợp, tuân theo luật bằng trắc nghiêm ngặt.

Câu 2 trang 86 SGK Ngữ văn 8, Tập 1

Ban trưởng suốt ngày đánh bạc, cảnh trưởng thì lợi dụng chức vụ để lấy tiền của phạm nhân.

Điều này được thể hiện rõ qua cụm từ trong nguyên tác: “thiên thiên đố” (ngày ngày đánh bạc), “giải phạm tiền” (lấy tiền của phạm nhân bị giải).

Câu 3 trang 86 SGK Ngữ văn 8, Tập 1

Không phải là lời khen, mà là lời mỉa mai. Câu thơ thứ ba tiếp tục giọng trào phúng, phê phán.

Huyện trưởng “chong đèn” không phải để làm việc công, mà là để hút thuốc phiện — biểu tượng cho sự sa đọa và thối nát.

Câu 4 trang 86 SGK Ngữ văn 8, Tập 1

Hai câu đầu phê phán những kẻ cấp dưới tham lam, vụ lợi.

Câu thứ ba lên án kẻ đứng đầu – huyện trưởng – đang đắm chìm trong sự ăn chơi, vô trách nhiệm.

→ Giọng điệu trào phúng ở câu thứ ba sâu cay và châm biếm hơn, mở rộng sự phê phán từ dưới lên trên.

Câu 5 trang 86 SGK Ngữ văn 8, Tập 1

Những nhân vật được nhắc đến là các quan chức trong bộ máy chính quyền ở Lai Tân: ban trưởng, cảnh trưởng và huyện trưởng.

Họ là đại diện cho tầng lớp cầm quyền nhưng lại tham nhũng, sa đọa, vô trách nhiệm.

→ Qua đó, tác giả Hồ Chí Minh phê phán sâu sắc sự mục ruỗng, thối nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch lúc bấy giờ.

Câu 6 trang 86 SGK Ngữ văn 8, Tập 1

Câu cuối “thái bình thiên” nghe có vẻ trái ngược với ba câu trước phê phán sâu cay, nhưng thực chất lại là đỉnh điểm của châm biếm.

Trong bối cảnh quan lại ăn chơi, lười biếng, thối nát mà vẫn gọi là “thái bình” thì đó chính là sự châm biếm đanh thép đối với thực trạng xã hội lúc bấy giờ.

Viết kết nối với đọc

Viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) làm rõ chất trào phúng nhẹ nhàng mà sâu cay của bài thơ Lai Tân qua lời nhận xét: “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”.

Lời nhận xét “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình” ở cuối bài thơ “Lai Tân” của Hồ Chí Minh chính là điểm nhấn làm bật lên chất trào phúng nhẹ nhàng mà sâu cay. Ba câu thơ đầu đã phác họa một cách chân thực và sống động bức tranh về bộ máy quan lại thối nát ở Lai Tân: ban trưởng vừa là nha lại vừa là lính hầu, huyện trưởng thì mải mê đánh bạc, còn cảnh sát trưởng lại ngang nhiên buôn thuốc phiện. Những hành động tiêu cực, tha hóa ấy tưởng chừng sẽ khiến Lai Tân hỗn loạn, bất ổn. Thế nhưng, nhà thơ lại kết thúc bằng một câu khẳng định đầy mỉa mai về sự “thái bình” của nơi đây. Chính sự đối lập giữa thực tại mục ruỗng và cái vẻ ngoài bình yên giả tạo ấy đã tạo nên tiếng cười châm biếm kín đáo. “Thái bình” ở đây không phải là sự yên ổn thực sự mà là một sự bình yên được xây dựng trên nền tảng của sự vô trách nhiệm, thối nát, một sự “thái bình” đến nực cười và đáng phẫn nộ. Bằng giọng điệu có vẻ khách quan, dửng dưng, Hồ Chí Minh đã khéo léo vạch trần bản chất của xã hội cũ, khiến tiếng cười trào phúng tuy nhẹ nhàng nhưng lại thấm thía và sâu sắc. Câu thơ cuối cùng như một mũi tên châm biếm, nhẹ nhàng mà trúng đích, làm nổi bật tài năng và bản lĩnh của nhà thơ.

Bằng nghệ thuật trào phúng tinh tế và lời thơ giàu hình ảnh, bài Lai Tân không chỉ là một tác phẩm văn học đặc sắc mà còn là tấm gương phản chiếu sâu sắc thực trạng xã hội dưới góc nhìn đầy nhân văn của Hồ Chí Minh. Việc soạn văn bài Lai Tân giúp học sinh không chỉ nắm vững kiến thức mà còn rèn luyện tư duy phản biện và cảm nhận giá trị thời sự trong văn học.

Bài viết liên quan